trần thủ độ và trần hưng đạo
Sáng 28/9, Sở Quy hoạch - Kiến trúc và Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông thành phố Hà Nội đã tổ chức lễ công bố, trao giải cuộc thi tuyển phương án kiến trúc công trình cầu Trần Hưng Đạo. Theo đó, phương án đạt giải nhất có mã số THĐ12 (DD1188
Tiếng Anh 100 Trần Hưng Đạo Thứ Tư, 17 tháng 6, 2009. Bạn nào nghỉ học cố gắng đến đóng rồi về. Thanks mọi người! Moi nguoi thu 5 nho di hoc day du nhe! Ko di thay chem thi tu chiu trach nhiem. Người đăng: our_english08 vào lúc
Tầng 19, Tòa nhà Thủ Đô, 109 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội YÊU CẦU VỀ TRÌNH ĐỘ VÀ KINH NGHIỆM YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG - Tốt nghiệp Đại học trở lên, chuyên ngành phù hợp với vị trí công việc và Quy
(Cinet) - Lễ khai ấn đền Trần diễn ra giữa đêm 14 và mở đầu cho ngày 15 tháng Giêng, tại Khu di tích đền Trần phường Lộc Vương, TP.Nam Định. Đ ây là sự hồi ảnh của tập tục cổ, sau những ngày nghỉ tết bắt đầu từ rằm tháng giêng thì triều đình trở lại làm việc bình thường.
Trần Thủ Độ (1194 - 1264) là một nhà chính trị đóng vai trò chủ sự trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực phản loạn và trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất. Ông là một khối mâu thuẫn giữa tốt và xấu, đức độ và tàn nhẫn, nhưng… nhất quán mục tiêu vì một vương triều Trần vững mạnh.
materi ips kelas 5 sd kurikulum 2013. Suốt hơn 2500 năm đó, Việt Nam cũng đã trải qua hàng nghìn cuộc đấu chống giặc ngoại xâm lớn nhỏ khác nhau và cũng đã xuất hiện ko biết bao nhiêu những vị tướng tài kiệt xuất đứng ra bảo vệ bờ cõi. Với đó, chắc hẳn không thể nào không nhắc tới Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, một vị tướng tài kiệt xuất từ thời nhà Trần đã từng 3 lần chống lại quân Mông Nguyên bảo vệ đất nước. Ông cũng là vị tướng duy nhất trong lịch sử Việt được phong thánh. Vậy vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và là vị tướng duy nhất được phong thánh trong khi trong lịch sử Việt Nam cũng không vô kể những vị tướng tài? Cùng Đồ Đồng Dung Quang Hà tìm hiểu và trả lời thắc mắc qua bài viết sau đây nhé!Tiểu sử cuộc đời Hưng Đạo Vương Trần Quốc TuấnTrần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu là Hưng Đạo Đại Vương. Ông sinh năm 1226 tại kinh đô Thăng Long, nguyên quán ở Phủ Thiên Trường nay thuộc xã Lộc Vượng, TP. Nam Định và mất vào năm 1300 tại Vạn Kiếp. Ông là con trai của Trần Liễu và là cháu nội từ Trần Thái Quốc Tuấn ra đời khi họ nhà Trần vừa mới thay thế nhà Lý khiến cho vua một đất nước loạn ly, đói kém. Lúc này, Trần Thủ Độ, một tôn thất tài tình đã xếp đặt bày mưu để giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ, Trần Cảnh tức vua nhà Trần thời bấy giờ còn nhỏ chỉ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng vị vua chung cục từ dòng họ Lý. Vì nhường nhịn ngôi cho chồng mà trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ vô cùng lo giờ, Trần Liễu cha từ phía Trần Quốc Tuấn lấy công chúa Thuận Thiên chị gái từ phía Lý Chiêu Hoàng đang với thai. Trần Thủ Độ ép Liễu phải dường vợ cho Vua để chắc có một đứa con cho Trần Cảnh. Trần Liễu nổi loạn nhưng đã được Trần Thủ Độ dẹp tan và tha chết. Song điều này ko dẹp nổi lòng thù hận từ vậy mà Ông đã tìm thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác cho con tức Trần Quốc Tuấn để con thay cha trả mối thù sâu nặng này. Với bé, Trần Quốc Tuấn đã là một bậc kỳ tài. Lớn lên, Ông càng tỏ ra thông minh xuất chúng hơn người, văn võ song toàn. Bấy giờ quân Nguyên đang tiến đánh nước ta, Trần Quốc Tuấn đã bắt tay khiến hòa với Trần Quang Khải con của Trần Cảnh để cùng nhau đánh giặc ngoại, bảo vệ đất đáp vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh?Dưới sự lãnh đạo từ phía Trần Hưng Đạo, quân và dân nhà Trần đã vượt qua vô vàn thử thách, lấy “ít địch nhiều”, lấy “yếu thắng mạnh” 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược hùng ra, ông còn là một nhà văn với tác phẩm hịch tướng sĩ nổi tiếng vang lừng đất nước. Ông cũng đã soạn 2 bộ sách để dạy các tướng soái đương thời cầm quân đánh giặc đó là “binh thư yếu lược” và “vạn kiếp tông bí truyền thư” đúc kết đa dạng kinh nghiệm quý báu về việc đánh giặc, giữ nước để truyền lại cho hậu những chiến công vang dội từ phía mình, Trần Quốc Tuấn là một trong những đại diện tiêu biểu của 14 vị anh hùng tiêu biểu dân tộc Việt Nam. Ông đều được trần giới suy tôn là Đức Thánh Trần và là vị tướng duy nhất được phong thánh tại Việt nay, để ghi nhớ công ơn và sự hy sinh to lớn của ông, phổ biến người thường đặt những bức tượng Trần Quốc Tuấn bằng đồng để thờ cúng, trang trí để cầu mong gia đình được bình sao Trần Hưng Đạo được phong thánh?Trần Hưng Đạo là vị tướng duy nhất được phong thánh vậy vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh? Ông là người như thế nào? Dưới đây là một số nguyên nhân sở hữu thể giảng giải cho việc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và là vị tướng duy nhất được phong thánh trong lịch một vị tướng tài ba kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạcHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị tướng tài tình kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Ông không chỉ là một vị tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà văn kiệt xuất, là biểu trưng từ một vị hiền tài văn võ song Nguyên – Mông vốn là một đội quân lớn mạnh, Trần Quốc Tuấn cũng không sợ hãi mà hơn hết chính ông lại là người cầm quân dẫn dân 3 lần đương đầu và đánh bại quân Nguyên Mông bảo vệ lãnh thổ dân Trần Hưng Đạo cao 1m27 khảm tam khí tinh xảo>> Xem ngay Những lưu ý khi mua và sử dụng tượng Đức Thánh TrầnÔng không chỉ bảo vệ tổ quốc mà còn đã để lại cho dân tộc ta những tư tưởng chính trị tiến bộ cùng với tài thao lược bất hủ với 2 cuốn binh thư “binh thư yếu lược” và “vạn kiếp tông bí truyền thư” được lưu truyền của đời này sang đời khác, giúp con cháu đời sau với thể học theo tài thao lược từ phía vị tướng lĩnh luôn có lòng thương dân, yêu nướcMột trong những lý do khác để trả lời cho câu hỏi vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh đó là ông là một bậc tướng tài vừa với đủ tài sở hữu đủ đức, có lòng thương dân và yêu nước. Không chỉ giỏi việc cầm quân, ông còn là người rất biết giữ chữ tín, cẩn trọng trong từng lời nói và biết suy nghĩ cho cả đại đồng Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảo>> Xem chi tiết sản phẩm Tượng đồng Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảoÔng là một vị tướng nhân bởi ông thương dân, thương quân, là người soi đường chỉ cho quân dân con đường sáng. Ông là một vị tướng nghĩa bởi ông xem việc phải hơn điều lợi, Là một vị tướng chí bởi ông biết lẽ đời sẽ dẫn mình tới nơi đâu. Là một vị tướng dũng bởi ông sẵn sàng đứng dậy cầm quân đánh giặc dẫu biết quân giặc vô cùng to mạnh. Và là một vị tướng tín bởi bởi ông luôn minh bạch, rõ ràng trong hầu hết chuyện, toàn bộ việc, luôn thanh minh cho quân quân nhân biết theo ông sẽ được gì, và trái lời ông sẽ nhận hậu quả ra đã từng nói “ Bệ hạ hãy chém đầu thần trước, rồi hãy hàng”. Câu nói này chính là minh chứng rõ nhất về khí phách từ ông, cũng là khí phách của nước Đại Việt, là đỉnh cao của lòng yêu nước khiến rực sáng dân tộc tới tận ngàn vị tướng luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầuKhông chỉ tài ba, ông còn lưu được tiếng thơm muôn thuở bởi tinh thần trung trinh ái quốc, biết đặt nợ nước lên trên cả thù được thân sinh mình tức Trần Liễu gửi gắm mối thù cướp vợ và từng trăn trối cho ông rằng “Con phải trả thù cho cha, rồi nhân đó, đoạt luôn ngôi báu thì cha tại dưới suối vàng mới với thể thanh thản im nghỉ được”. Ông tuy nhớ lời trăn trối từ phía cha nhưng vốn chưa bao giờ với ý định thực hiện. Trước cường địch, ông còn ra mặt đứng ra chủ động giải mối hận thù giữa hai gia đình để đồng tâm đánh thắng quân Nguyên hung Trần Quốc Tuấn đồng đỏ khảm tam khí đẹp, độc đáo>> Xem chi tiết sản phẩm Tượng Trần Quốc Tuấn đồng đỏ khảm tam khí đẹp, độc đáoTrong chiến tranh, ông vẫn luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm mỗi cây gậy bịt sắt, những trong ngoại trừ vẫn với lời dị nghị sợ ông sát vua. Sau này ông cũng bỏ luôn cây gậy bịt sắt và chỉ chống gậy ko lúc kề cận với vua. Từ đó sự nghi kỵ cũng dần chấm dứt. Ông luôn chú ý tới từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan, yên ổn lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa to dân tộc. Một tấm lòng son sắt, hiếu trung vì vua, vì chí, Trần Hưng Đạo còn là một người với thể biến quân thù thành bạn, trừng phạt chính con trai mình vì tội bất hiếu với vua, bất trung với cách con người Trần Quốc TuấnHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ko chỉ biểu lộ mình là người giỏi bày binh, bố trận mà còn vô cùng biết bí quyết đối nhân xử những đối xử với vua toàn tâm, toàn ý với nước mà ông còn siêu rộng lượng với những người lầm đường lạc lối. Khi toàn thắng quay về, ông đã xin vua đốt bỏ hết những hồ sơ của những kẻ đầu hàng giặc, những kẻ phản nghịch để xóa hết thù hận, tránh cho kẻ lầm đường mang cảm giác tội lỗi hay bị cùng đường sẽ sinh loạn. Đó là tấm lòng khoan dung đại lượng từ một bậc anh hùng và là một bước nhìn xa từ phía vị quân Trần Quốc Tuấn bằng đồng vàng mộc đẹpCuộc đời ông chính là một bản hùng ca vang dội. Ông không vì thù nhà mà bỏ rơi quyền lợi của đất nước, của nhân dân mà luôn đặt nó lên hàng đầu. Ông là vị anh hùng kiệt xuất vừa có đức vừa có tài, văn võ song toàn. Đây cũng chính là những lí do có thể giải thích cho việc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và lại được người đời tôn sùng như tượng Trần Hưng Đạo trong nhà có ý nghĩa gì?Ngày nay, để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông mà những bức tượng đồng về ông thường được sử dụng phổ biến trong cuộc sống cũng như trang trí nhà cửa. Đặt tượng ông trong nhà đó không chỉ là sự biết ơn, cảm kích của người đời sau đối với công ơn của ông mà còn là đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và là cách để răn dạy con cháu sau này có thể phát triển tốt phong thủy, tượng danh nhân Trần Quốc Tuấn cũng là một vật phẩm phong thủy mang lại hiệu quả cao trong trấn trạch, trừ tà, xua đuổi điềm dữ, các vận khí xấu. Đặt tượng Trần Quốc Tuấn trong nhà sẽ giúp bảo vệ gia đạo được bình an, may mắn cũng như mang lại thuận lợi về mặt đất cát, gia trạch, tránh được các tai ương, vận xấu và những bệnh tật không mong Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảoNgoài ra, bày tượng Trần Hưng Đạo trong nhà còn có đến sự thuận lợi, may mắn về đường sự nghiệp đặc biệt có lợi cho những người làm ăn marketing buôn bán. Dáng vẻ uy nghiêm từ tượng sẽ mang gia chủ tránh được những lời gièm pha, đố kỵ từ phía kẻ tiểu nhân. Với đó thu hút phổ biến vượng khí, tài lộc cho gia chủ. Ngày nay, gia chủ cũng có thể tìm thấy rộng rãi mẫu tượng Trần Quốc Tuấn được chế tạo dưới nhiều mẫu mã, kiểu dáng khác nhau như tượng đồng, tượng gỗ,…. tuy nhiên những mẫu tượng đồng vẫn luôn được phổ biến gia chủ phù hợp chọn lựa nhất. Trên đây là những chia sẻ từ phía Đồ Đồng Dung Quang Hà xung vòng quanh thắc mắc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh. Hy vong qua bài viết này, gia chủ sẽ với thể tìm thấy được những ý nghĩa trong việc sử dụng tượng Trần Hưng Đạo.>> Xem ngay Những mẫu tượng Trần Quốc Tuấn bằng đồng đẹp, chất lượng và được ưa thích nhất hiện nay
Trần Hưng Đạo chữ Hán陳興道; 1228 – 1300, tên thật là Trần Quốc Tuấn chữ Hán陳國峻, tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần 德聖陳 hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế 九天武帝. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.[1] Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà Nguyên sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông, và vua Trần Nhân Tông lần lượt là em họ và cháu họ ông phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược do hoàng tử thứ chín Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp,... đánh đuổi hoàn toàn quân Nguyên khỏi biên giới. Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Khi tiếp tục được phong Quốc công tiết chế; Hưng Đạo vương khẳng định với vua Trần Nhân Tông "Năm nay đánh giặc nhàn". Ông đã áp dụng thành công chiến thuật của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân nhà Nguyên do các tướng Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi chỉ huy trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, buộc quân Nguyên lại phải rút về nước và vĩnh viễn từ bỏ tham vọng thôn tính phương Nam của họ. Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Sau đó, ông lui về Vạn Kiếp đến khi mất năm 1300. Trước lúc qua đời, ông khuyên Trần Anh Tông "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".[2] Ngoài ra, ông còn để lại các tác phẩm kinh điển như Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến ngày nay.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 1228-1300 là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Ngay từ nhỏ, cha của ông, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho con hội đủ tài võ. Lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh, xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình, Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùng cứu sức mạnh xuất quỷ nhập thần của quân Mông Cổ, những kẻ yếu bóng vía như Trần Nhật Hiệu, được Vua Trần Thái Tông hỏi thì chỉ lấy nước viết bên mạn thuyền hai chữ 'Nhập Tống', để mong nhờ Thiên triều che chở. Trong khi Thái Sư Trần Thủ Độ lại thưa rằng, 'Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo...', Trần Hưng Đạo được cử đốc suất tả hữu tướng quân chống giặc và với tài điều binh khiển tướng tài tình, quân xâm lược Mông Cổ bị đánh thua phải chạy dài, không dám cướp phá và vĩnh viễn từ bỏ "mộng xâm lược" Đại lược "xoay chuyển tình thế"Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 1228-1300 là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Ngay từ nhỏ, cha của ông, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho con hội đủ tài võ. Lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh, xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình, Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùnh cứu Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo viết “Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng”. Điều đó đồng nghĩa với việc làm cách nào để có được chiến thắng cuối cùng mới là điều quan trọng nhất. Thế nên, cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông - đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới thời trung đại - của quân dân nhà Trần, dưới sự chỉ đạo của ông, được tiến hành theo một phương thức rất đặc cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 1285, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã nhanh chóng thay đổi chiến lược chuyển từ trực tiếp đối đầu với khí thế hung hãn của quân Nguyên, sang lui binh. Hạ lệnh cho tất cả các cánh quân rút lui, ông cùng với hai vua Trần thu quân về Vạn Kiếp Chí Linh, Hải Dương. Giặc truy kích đến Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo lại đưa quân về Thăng Long. Khi giặc đuổi theo đến Thăng Long, ông điều binh rút về Thiên Trường Nam Định. Cứ thế, quân ta tránh đụng độ với giặc trong nhiều thángỞ đây, một chiến thuật có vẻ bất thường nhưng lại là một trong những điểm đặc sắc nhất thể hiện óc chiến lược sắc sảo của Trần Hưng Đạo. Với sức mạnh áp đảo, quân Nguyên muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Bị chúng lấn át ngay trong những đợt tấn công đầu tiên, ông hiểu rằng, đối đầu ngay tức thì không phải là một chiến thuật đắc dụng trong tình huống này vì những đội quân muốn đánh nhanh thắng nhanh thường có một nhược điểm chí tử đó là công tác hậu cần. Và thất bại của quân Nguyên Mông năm 1258 góp phần chỉ rõ điểm mấu chốt Trần Hưng Đạo, thay vì tiến hành những cuộc tiến công trực diện ít có cơ hội chiến thắng, đánh vào điểm yếu này của địch sẽ là cách tốt nhất lấy đi sức mạnh của chúng. Áp dụng chiến lược lui binh, ông khiến cho địch không thể đánh theo cách đánh của chúng, nói theo cách khác, ông chủ động kéo dài cuộc chiến đấu. Khi đó, thiếu lương thực, địch tự làm chúng suy được chìa khoá tiêu diệt địch, khi quân Nguyên lần thứ ba đưa quân sang xâm lược Đại Việt 1287- 1288, Trần Hưng Đạo đã tự tin tâu với vua Trần "Thế giặc năm nay dễ phá". Và quả nhiên, sau khi tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt đội binh lương của quân địch tại Vân Đồn cuối năm 1287, quân địch lại rơi đúng vào tình huống ngặt nghèo về lương thảo, đã từ thế chủ động tấn công sang tình trạng dần mất phương hướng và rơi vào thế trận chiến tranh nhân dân của nhiên, nếu coi chiến lược lui binh của Trần Hưng Đạo là khởi đầu của một kế hoạch xoay chuyển tình thế khoét sâu nhược điểm, đẩy giặc vào tình thế khốn đốn và lấy lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, thì cuộc chiến của nhân dân mỗi nơi giặc đến chính là bước thứ hai - sự phản công nắm chắc phần thắng. Vì thế mới nói sự phối hợp ăn ý giữa việc lui binh của quân triều đình với các cuộc tiến công tại chỗ của nhân dân khắp nơi chiến tranh du kích là yếu tố quyết định thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông dưới sự điều binh, khiển tướng tài tình của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.“Hình dáng trận như chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chứ nhân, họp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người, một người làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận, nghìn muôn người động làm một trận”, Trần Hưng Đạo nói về sức mạnh của chiến tranh nhân tướng Võ Nguyên Giáp viết về Trần Hưng ĐạoNhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ngày 16/9/2000, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có bài viết, Đất Việt trích đăng"Trong sự nghiệp hiển hách ba lần chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông là một nhà chính trị-quân sự đại tài được vua Trần tin yêu, giao quyền tiết chế, thống suất tất cả vương hầu, tôn thất, tướng lĩnh, điều động binh nhung, khí giới. Khi quân Mông-Nguyên xâm lược lần thứ nhất 1258, ông được chỉ huy các tướng lĩnh điều quân thủy bộ bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai 1285 và thứ ba 1288, ông được cử làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn quân đánh lĩnh của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở quyết tâm diệt địch và thắng địch không gì lay chuyển. Ngay những lúc gian nan nguy hiểm nhất, ông vẫn tin vào thắng lợi, giữ vững lòng quân, lòng dân. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai 1285, khi sự mất còn của nền độc lập nước nhà chỉ còn trong gang tấc, quân xâm lược đã chiếm được nhiều địa bàn trọng yếu, trong đó có cả kinh thành Thăng Long và phủ Thiên Trường, nội bộ quý tộc và quan lại triều Trần đã có người nao núng, hàng giặc, Trần Quốc Tuấn vẫn hiên ngang bất khuất, giữ vững lòng tin son sắt vào thắng lợi. Câu nói bất hủ của ông "Bệ hạ muốn hàng, trước hết hãy chém đầu thần đi đã", đã nêu một tấm gương lớn về tinh thần quyết chiến và ý chí "Sát Thát" trước triều đình, trước toàn quân và toàn dân năng của Trần Quốc Tuấn biểu hiện ở chỗ ông nhận thức rất rõ nhân dân là nguồn sức mạnh giữ nước. Nguồn sức mạnh đó phải được xây dựng, bồi dưỡng lâu dài trong thời bình cũng như trong thời chiến, bằng nhiều chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội. Ông chủ trương "Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước".Ông xem, việc đoàn kết nội bộ là một nhân tố cực kỳ quan trọng để tạo thành sức mạnh. Nhìn lại ba cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên thắng lợi, ông xác định "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức" là nhân tố đã làm cho "quân địch phải chịu bị bắt" bỉ tựu tự cầm. Ông rất coi trọng đoàn kết quân và dân, đoàn kết trong quân đội "như cha con một nhà".Chính nhờ nguồn sức mạnh đó mà dân tộc Việt Nam đã có thể đứng vững và vượt qua những thử thách ghê gớm của họa xâm lăng khốc liệt do đế quốc Nguyên Mông gây tài giỏi của Trần Quốc Tuấn là biết chuyển tình thế từ hiểm nghèo thành thuận lợi, xoay chuyển thế trận, tạo nên thời cơ. Và khi thời cơ đến thì chuyển sang phản công; tiến công; chọn đúng hướng; đúng mục tiêu; đánh những trận quyết định; khiến kẻ thù không kịp trở tay, trong chốc lát đã bị thất thao lược của Trần Quốc Tuấn nổi bật là tính chủ động và linh hoạt, "biết người, biết mình", chủ động điều địch, chủ động đánh địch, xem xét quyền biến... tùy thời mà làm"... Và theo đó, một học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại phong kiến đã hình thành, học thuyết quân sự dân tộc trong chiến tranh giữ nước. Chính trên cơ sở này, Lê Lợi - Nguyễn Trãi phát triển thành học thuyết quân sự dân tộc trong chiến tranh giải phóng; Nguyễn Huệ tiếp tục phát triển thành học thuyết quân sự dân tộc trong khởi nghĩa của nông dân, trong chiến tranh giữ nước...Với tài năng chính trị quân sự kiệt xuất, tấm lòng tận trung với vua, với nước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã cùng với triều đình nhà Trần và quân dân Đại Việt bảo vệ trọn vẹn độc lập dân tộc, đưa triều đại nhà Trần lên hàng triều đại thịnh trị trong lịch sử trung đại, để lại những bài học lịch sử có giá trị về dựng nước và giữ nước. Những thành tựu về võ công và văn trị, những giá trị vật chất và tinh thần thời Trần đã làm vẻ vang lịch sử dân tộc và là niềm tự hào lớn lao cho Tổ lần xâm lược thất bại ở Đại Việt năm 1258, quân Nguyên không dám khinh suất. Trong các đợt xâm lược lần thứ hai 1285 và lần thứ ba 1288, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt phái đi những đạo quân đông gấp cả chục lần so với lần đầu và lần sau chuẩn bị chu đáo hơn lần trước lần thứ 2, quân Nguyên có tới 50 vạn quân, lần thứ 3 quân Nguyên có 30 vạn quân, trong đó có cả thuỷ binh và chưa tính đội quân chở lương.Tướng giặc Ô Mã Nhi đã thẳng thừng đe dọa quan quân nhà Trần rằng "Chỉ trong chốc lát, núi sông các ngươi sẽ thành đất bằng, vua tôi các ngươi sẽ ra cỏ mục". Địch mong muốn dùng sức mạnh ào ạt khiến quân ta khiếp đảm, tan tác, nhưng cuối cùng đều bị Trần Hưng Đạo chỉ huy bị bẻ gãy nhanh ThêmNghiên cứu loại bỏ các khí độc trong môi trường Nguyễn Hoài Châu và nhóm nghiên cứu Viện CN môi trường, Viện Hàn lâm KH&CN VN đã phối hợp với Viện Hóa học Hữu cơ Zelinskiy thuộc Viện Hàn lâm KH thực hiện Nghiên cứu phát triển phương pháp hấp phụ loại bỏ các khí độc NH3, NO2, H2S, SO2 trong môi trường nước bằng các vật liệu composite hiện đại trên cơ sở than hoạt tính biến tính, zeolite dạng cation và các polime phối trí kim loại–hữu CơThanh Hóa Đánh giá Dự án quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồngSáng ngày 26/5/2023, tại xã Nga Thủy huyện Nga Sơn, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa Liên hiệp hội tổ chức hội nghị sơ kết giữa kỳ Dự án “Quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng để tăng cường khả năng chống chịu với rủi ro biến đổi khí hậu ở tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam” Dự án do Tổ chức Bánh mỳ cho Thế giới tài Ngãi Hội thảo Giải pháp nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vữngNhân dịp chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5, ngày 16/5/2023, tại thành phố Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức Hội thảo khoa học "Giải pháp góp phần nâng cao thu nhập bình quân đầu người, giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi”.Bình Thuận Giới thiệu một số mô hình sản xuất nông nghiệpNhân dịp kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2023 trên địa bàn tỉnh. Sáng ngày 16/5/2023, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức hội thảo “Giới thiệu một số mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn sinh học, bền vững”.Cần tăng cường chuyển giao công nghệ hiện đạiChuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là một kênh quan trọng để mỗi ngành, mỗi địa phương giải quyết tốt các vấn đề khoa học, kinh tế - xã hội. Thời gian qua, tại nước ta đã triển khai nhiều chương trình, kế hoạch thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài để ứng dụng trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên, mang lại nhiều kết mớiHội Chăn nuôi Việt Nam luôn đồng hành với người chăn nuôiTrong nhiều năm qua, Hội Chăn nuôi Việt Nam luôn đồng hành với người chăn nuôi vượt qua khó khăn đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, phản biện, kiến nghị các giải pháp, phòng, chống dịch cúm, các chính sách khuyến khích chăn nuôi, bảo vệ quyền lợi chính đách của người sản xuất, kinh doanh gia cẩm, góp phần khôi phục và phát triển chăn nuôi gia cầm bền cứu loại bỏ các khí độc trong môi trường Nguyễn Hoài Châu và nhóm nghiên cứu Viện CN môi trường, Viện Hàn lâm KH&CN VN đã phối hợp với Viện Hóa học Hữu cơ Zelinskiy thuộc Viện Hàn lâm KH thực hiện Nghiên cứu phát triển phương pháp hấp phụ loại bỏ các khí độc NH3, NO2, H2S, SO2 trong môi trường nước bằng các vật liệu composite hiện đại trên cơ sở than hoạt tính biến tính, zeolite dạng cation và các polime phối trí kim loại–hữu CơQuảng Ngãi Chuẩn bị Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ INgày 8/6/2023, Liên hiệp các Hội các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng ngãi, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp trực tiếp, trực tuyến để rà soát toàn bộ nội dung về công tác phối hợp tổ chức. Ông Lê Quang Thích, Chủ tịch Liên hiệp Hội, Trưởng Ban Tổ chức Cuộc thi, chủ trì cuộc sinh hoạt tư tưởng ý nghĩa của Tạp chí Việt Nam hội nhậpHướng tới kỷ niệm 98 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam 21/6/1925 – 21/6/2023, Ngày 8/6, Cấp Ủy và Lãnh đạo Viện Chính sách, Pháp luật và Quản lý, Tạp chí Việt Nam Hội nhập tổ chức Lễ báo công và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Lễ biểu dương Trí thức – Doanh nhân làm theo lời BìnhTôn vinh 18 cá nhân tiêu biểu của phong trào “Học không bao giờ cùng”Vừa qua, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thái Bình đã tổ chức Hội nghị đại biểu trí thức tỉnh Thái Bình năm 2023. Tới dự có đồng chí Ngô Thị Kim Hoàn, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; Vũ Thanh Vân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh; Trần Thị Bích Hằng, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban Chỉ đạo Xây dựng xã hội học tập tỉnhNghệ An Hội Điều Dưỡng kỷ niệm 30 năm thành lậpSáng 2/6, Hội Điều dưỡng tỉnh Nghệ An đã kỷ niệm 30 năm thành lập 3/6/1993 - 3/6/2023 và tổ chức hội thảo nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh. Tham dự lễ kỷ niệm có các lãnh đaọ, nguyên lãnh đạo Sở Y tế tỉnh qua các thời kỳ và các hội viên của Hội.
Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú xếp Trần Hưng Đạo đứng thứ nhất trong bốn “tướng có tiếng và tài giỏi” đời Trần trên Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão và Trần Khánh Dư. Cùng với đó là lời cẩn án “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa chí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa… Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp”1. Trong những ghi chép có phần vắn tắt, nhà sử học TK XIX còn không ít lần tỏ lòng ngưỡng mộ và ngợi ca mối quan hệ tốt đẹp cũng như tấm lòng trung thành trước sau như một của Trần Quốc Tuấn với các vua nhà Trần. Trước đó gần nửa thế kỷ, sử thần Ngô Thì Sỹ cũng đánh giá Hưng Đạo vương có “lòng trung thành thấu đến mặt trời, mặt trăng; khí tiết động đến quỷ thần”, “thật đáng làm gương hàng trăm đời cho những người làm bề tôi”2. Trong lịch sử Việt Nam, đó là một chuẩn mực và mẫu mực của mối quan hệ vua tôi. Tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Hưng Long thứ 8 1300, tức hai tháng trước khi qua đời, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lâm trọng bệnh. Vua Trần Anh Tông thân hành về phủ đệ của vương ở Vạn Kiếp. Đến bên giường bệnh, lo lắng hỏi thăm tình hình sức khỏe, nhà vua đồng thời tranh thủ ý kiến Trần Quốc Tuấn về kế sách ngừa giặc, giữ nước. Hưng Đạo vương tổng kết kinh nghiệm và bài học lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, nhấn mạnh nguyên nhân thắng lợi của nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông là bởi đã phát huy cao độ sức mạnh của “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà góp sức”. Lời di chúc ngắn gọn, nhưng súc tích, mang tính khái quát rất cao. Đó không chỉ là tâm huyết, trí lực của một nguyên lão trọng thần gắn bó cả cuộc đời với thời kỳ gian nan nhất nhưng cũng huy hoàng nhất của vương triều; mà còn là kinh nghiệm tổng kết nghệ thuật quân sự của vị đại tướng ba lần gánh trọng trách tổng chỉ huy quân đội cả nước đánh giặc, giữ nước. Suy rộng ra, đó còn là tư tưởng, đường lối chính trị của vương triều Trần. Cội nguồn sức mạnh, nguyên nhân của mọi thành công nhà Trần có được là bởi triều đại này đã xây dựng được một nền tảng chính trị vững chắc dựa trên ba yếu tố chính sách khoan hòa, thân dân; chính quyền vững mạnh, đoàn kết; và tinh thần gắn kết, nhất trí cao độ trong dòng họ Trần. Thật vậy, tư tưởng bao trùm trong đường lối trị nước của triều Trần là thân dân. Thiết chế tập quyền thân dân thời Trần thực chất là sự kế thừa, phát huy tinh thần của triều Lý, nhưng mang những màu sắc riêng, mới của thời đại. Và cũng không phải đợi đến khi Trần Hưng Đạo di chúc phải “khoan thư sức dân để lấy làm kế sâu rễ bền gốc”, nhà Trần mới thấm nhuần triết lý dĩ nông vi bản. Còn nhớ, ngay từ thưở mới kiến lập vương triều, Trần Thái Tông đã rất tâm đắc lời của quốc sư Trúc Lâm “Phàm là kẻ làm vua thì phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của dân làm tấm lòng của mình”. Vì vậy, ngai vàng quyền lực, ông “xem như chiếc giày rách, bỏ đi lúc nào cùng được”. Các vị vua về sau, từ những chính sách, pháp luật đến cách hành xử, các lời nói, việc làm cụ thể đều phản ánh tấm lòng yêu dân, coi trọng lê dân bách tính. Sử cũ chép rằng, một lần nọ, khi cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất 1258 vào hồi gian nguy nhất, nhà vua muốn biết tình hình quân giặc đã truyền hỏi “Quân Nguyên ở đâu?”. Lão đánh cá đang xuôi thuyền sông Hồng, tên Hoàng Cự Đà, vốn là hầu cận của vua, ngang nhiên trả lời “Không biết, các ngươi đi mà hỏi những ai ăn xoài ấy”. Trước thái độ khi quân của Cự Đà, vua Trần không những không xử tội, mà còn tự trách mình vì đã đối xử không công bằng với những người dưới3. Chính quyền nhà nước thời Trần là sự kết hợp chặt chẽ giữa tầng lớp quý tộc tôn thất và đội ngũ quan liêu đang dần lớn mạnh. Khôn khéo và chính xác trong thuật dùng người, thưởng phạt công bằng, nghiêm minh và phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, nhất trí trong hàng ngũ quan lại chính là những yếu tố quan trọng giúp triều Trần tạo nên sức mạnh của cả bộ máy chính quyền. Điều này được phản ánh bằng nhiều câu chuyện sinh động chép trong sử cũ Một lần, có kẻ đàn hặc Trần Thủ Độ, trước mặt nhà vua khóc mà rằng “Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Trần Thái Tông tức tốc tới tư dinh Trần Thủ Độ, mang theo cả người đàn hặc và kể hết mọi chuyện với Thái sư. Trần Thủ Độ trả lời “Đúng như những lời hắn nói”. Rồi mang tiền lụa thưởng cho người ấy. Lần khác, Linh từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân lính ngăn lại, về dinh khóc nói với Trần Thủ Độ “Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế”. Thủ Độ tức giận, sai người đi bắt tên lính. Người ấy nghĩ rằng mình chắc phải chết. Đến nơi, khi bị tra hỏi, người lính cứ theo sự thực trả lời. Trần Thủ Độ nói “Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa”. Bèn lấy vàng lụa thưởng, cho về. Thái Tông có lần muốn lập anh của Trần Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng. Thủ Độ biết việc mới tâu rằng “An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?”. Vua vì thế, bèn thôi4… Đánh giá về thuật dùng người của nhà Trần, sử thần Ngô Sỹ Liên TK XV nhận xét “Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy Phạm Ngũ Lão – TG thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyên về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần thì dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong trận giặc, tùy cơ ứng biến, chống đỡ cho chúa trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm…”5. Lê Quý Đôn cũng bình luận “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ cho sử sách, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất”6. Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất ý chí trong tôn thất thực sự là một tư tưởng lớn, một chính sách đặc trưng của vương triều Trần. Bản thân các thành viên trong tộc Trần cũng luôn ý thức sâu sắc về những lợi ích chung, vì sự vững bền của cơ nghiệp nhà Trần. Vua Trần Thánh Tông 1258-1278 từng nói với người trong họ rằng “Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc”. Vua hạ chiếu cho các vương hầu tôn thất “khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau… Các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng”7. Nhà Trần luôn ý thức rõ ràng trong việc xây dựng, không ngừng củng cố một tập đoàn dòng họ vững mạnh. Tuy nhiên, trong khối thống nhất ấy, giữa các cá nhân, không tránh khỏi những hiềm khích, hiểu lầm, thậm chí là mâu thuẫn. Điều đáng lưu ý, dường như không ít những khúc mắc, đều ít nhiều liên quan đến Trần Hưng Đạo. Chủ yếu, ông là nạn nhân, phải gánh chịu và giải quyết. Khi vừa tròn 20 tuổi, năm Tân Hợi 1251, Trần Quốc Tuấn chịu cái tang mất cha. Trong lúc hấp hối, An Sinh vương Trần Liễu gọi Quốc Tuấn đến bên trăng trối rằng “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Mâu thuẫn giữa gia đình An Sinh vương với bên dòng vua Trần bắt đầu từ khi vương triều mới được kiến lập. Trần Cảnh khi ấy mới 8 tuổi, được chú họ là Trần Thủ Độ chọn đưa lên ngôi, không phải anh là Trần Liễu, lúc đó đã 15 tuổi. Sau khi làm vua, vì Trần Cảnh không có con, Thủ Độ ép lấy công chúa Thuận Thiên, vợ Trần Liễu, khi ấy đang mang thai. Khởi binh mà không giành lại được vợ con, tuy được tha chết song lại bị đầy ra Đông Triều, Trần Liễu trong lòng càng vô cùng căm giận. Ông quyết chí phục thù bằng cách dốc sức đào tạo, tìm khắp thiên hạ “những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn”. Trần Quốc Tuấn vốn “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”, càng khiến Trần Liễu yên tâm nhắm mắt vì đã tìm được người ủy thác. Năm Bính Thìn 1256, Vũ Thành vương Doãn – anh trai Trần Quốc Tuấn, vì những bất bình trong gia tộc có lẽ chủ yếu vẫn là giữa các con của Trần Liễu với dòng vua, thấy thất thế sau khi mẹ là Hiển từ Hoàng hậu vợ Thái Tông Trần Cảnh qua đời, đã mang theo vợ con trốn sang nước Tống, nhưng bị viên thổ quan phủ Tư Minh bắt đưa trả lại. Mối hiềm khích hai bên không những không được hóa giải, mà trong mắt các vua Trần và triều đình, thái độ chống đối của dòng máu An Sinh vương Trần Liễu càng trở nên rõ ràng. Tiếp đó, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai 1285, Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện – con thứ của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang thực chất là em ruột của Trần Quốc Tuấn, đã cùng với liêu thuộc là Lê Tắc đem cả nhà và quân lính đầu hàng giặc Nguyên. Dù Trần Kiện sau đó đã bị gia nô của Trần Hưng Đạo bắn chết, nhưng sự chống đối của con cháu Trần Liễu một lần nữa khiến vua Trần phải nghi ngại, dè chừng. Bản thân Trần Quốc Tuấn cũng có những lúc không bằng lòng với các hoàng tử nhà Trần, tiêu biểu là với Trần Quang Khải. Hiềm khích đó càng trở nên khó giải quyết, khi cả hai đều là những đại thần đầu triều. Một người là Quốc công Tiết chế, chỉ huy cao nhất lực lượng quân đội toàn quốc; còn người kia là Thượng tướng Thái sư, đứng đầu đội ngũ quan lại triều đình. Nhưng cái cách mà Trần Hưng Đạo hóa giải mọi mâu thuẫn, như cách nhìn nhận của sử cũ, là “vượt trên thói thường”. Với Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương dù là anh thuộc ngành trên, lại hơn tuổi, nhưng đã chủ động hòa giải hiểu lầm bằng một hành động rất thân tình – cởi áo, tắm cho em. Quốc Tuấn vừa tắm vừa vui vẻ nói “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”. Quang Khải cũng đáp “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa giữa hai người ngày càng thêm thắm thiết. Lời di huấn phút lâm chung của cha, Trần Quốc Tuấn ghi nhớ trong lòng nhưng không cho là phải, và cũng không làm theo. Giữa thù nhà và trách nhiệm với giang sơn xã tắc, với cơ nghiệp nhà Trần, ông đã đặt chữ trung trên tất thảy. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều trong tay, Hưng Đạo vương mới đem lời dặn của An Sinh vương nói lại với gia nô và các con trai của mình. Thái độ kiên quyết phản đối của Yết Kiêu và Dã Tượng, hợp với ý ông, khiến ông cảm động phát khóc và hết lời khen ngợi lòng trung tín của hai gia thần. Khi hỏi con trai cả là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Quốc Nghiễn trả lời “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!”. Trần Quốc Tuấn khen là phải. Ngược lại, ông đã vô cùng tức giận trước câu trả lời có ý phản nghịch của người con trai thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Ông tuốt gươm quát mắng “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”, rồi toan giết Quốc Tảng, may nhờ Hưng Vũ vương van xin, ông mới tha tội cho. Ông dặn Hưng Vũ vương “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”8. Cũng vì những lời lẽ gay gắt đó, Trần Quốc Tảng sau này không dám sinh lòng khác, lại hết lòng theo cha đánh giặc, lập nhiều chiến công, được phong đến tước Đại vương. Con trai Quốc Tảng là Trần Quang Triều được phong Văn Huệ vương, con gái làm Hoàng hậu của vua Trần Anh Tông… Đó là cách Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc dạy con, dạy cháu; cũng là thái độ kiên quyết của ông trước mọi ý đồ và hành động bất trung, bất nghĩa. Từ tư tưởng, tới cách hành xử và giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình, họ tộc, tất thảy đều khắc họa rõ nét khí tiết Trần Quốc Tuấn – một tấm lòng trung nghĩa, một nhân cách cao thượng. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là một cố mệnh đại thần trải bốn triều vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Trong quan hệ thân tộc, với các vua Trần, dù là cháu – con rể Thái Tông, là anh họ Thánh Tông, hay là bác – bố vợ Nhân Tông, là ông Anh Tông, Trần Quốc Tuấn đều hết mực trung thành, kính cẩn, thận trọng trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm; luôn đúng mực giữ đạo phép vua tôi. Vì có công lao lớn, vua Trần Thánh Tông trao cho Trần Hưng Đạo quyền được phong chức từ tước minh tự trở xuống, tước hầu thì phong trước tâu sau. Nhưng cả cuộc đời, chưa ông bao giờ dùng quyền ấy để phong cho một ai. Chỉ trừ gặp lúc chiến tranh cấp bách, ông phong Lang tướng giả không phải Lang tướng thực cho nhà giàu đã nộp thóc làm quân lương. Trong cả ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, Trần Quốc Tuấn luôn túc trực bên các vua Trần. Vì ông là người nắm binh quyền, lại sẵn mối hiềm cũ, khiến không ít người nghi ngại. Với một nhãn quan rất tinh tế, ông chủ động bỏ đầu bịt sắt nhọn, chỉ dùng gậy không mỗi khi đi cạnh vua. Hành động này được sử thần Ngô Sĩ Liên bình luận “Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử… mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy”9. Khi vua Thánh Tông đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, bỏ không chức Tể tướng, lại đúng lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Thái Tông gọi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đến bảo “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”. Quốc Tuấn trả lời “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”10. Ngược lại, các vua Trần đều rất mực yêu mến, tin tưởng và kính trọng Trần Quốc Tuấn. Tháng 9 năm Thiệu Phong thứ 7 1257, quân Nguyên xâm phạm cương giới. Vua Trần Thái Tông ban chiếu, lệnh cho Trần Quốc Tuấn, khi ấy mới tròn 27 tuổi, thống lĩnh các tướng đem quân thủy bộ ra biên ải chặn giặc. Trong cuộc kháng chiến lần hai 1285 và lần ba 1288, Hưng Đạo vương đều được phong Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn bộ lực lượng quân đội cả nước đánh giặc. Cả ba lần, ông đều không phụ sự ủy thác của vua Trần và sự trông mong của triều đình, quân dân Đại Việt. Mỗi lúc vận nước gian nguy, các vua Trần đều hỏi ý kiến Hưng Đạo vương với một thái độ rất ân cần, trọng thị. Trước kẻ thù là giặc Nguyên – Mông hùng mạnh, được nghe câu trả lời của vương “Phá được chúng là điều chắc chắn”, “năm nay đánh giặc nhàn”, hay “nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước”, các vua Trần càng vững dạ yên lòng, củng cố quyết tâm đánh giặc và thắng giặc. Sau khi đánh giặc thắng lợi, năm 1289, vua Trần tiến phong Trần Quốc Tuấn tước Đại vương, con cả Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn làm Khai quốc công, con thứ Hưng Nhượng vương Quốc Tảng làm Tiết độ sứ. Đó là cách tưởng thưởng xứng đáng của vua Trần cho những công lao to lớn của cả gia đình Hưng Đạo vương. Khi biết tin vương lâm bệnh nặng, cả thượng hoàng và vua Trần đều về tận phủ đệ ở Vạn Kiếp, ân cần hỏi han sức khỏe. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý tức ngày 3-9-1300, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời, thọ 70 tuổi. Cả nước khóc thương vô hạn. Vua Anh Tông cho bãi triều 10 ngày, cùng Thượng hoàng Nhân Tông đích thân về dự lễ tang, kính tế an ủi và xuống chiếu ban cho vương tước phẩm tột cùng Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, và cho lập miếu thờ. Thượng hoàng Trần Thánh Tông lúc sinh thời từng ngự chế bài văn bia đặt ở sinh từ của Đại vương, tôn ông là bậc thượng vụ, sánh tựa công lao kỳ vĩ của Thái Công Vọng khi xưa giúp Vũ vương nhà Chu. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là một anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, nhà chính trị – văn hóa lớn của lịch sử Việt Nam. Nhưng nhắc tới Trần Quốc Tuấn, trước hết là nhắc tới một nhân cách vĩ đại. Nói như Phan Bội Châu, Hưng Đạo vương “lập được công lớn, dẹp yên được giặc mạnh”, trở thành “người anh hùng bậc nhất chống ngoại xâm” là “nhờ có ba điều” “thứ nhất là lòng nhiệt thành”, “thứ hai là có kiến thức cao” và “thứ ba là nhân cách cao thượng”11. Giữa ông với các vua Trần luôn duy trì những mối quan hệ tốt đẹp, thủy chung như nhất. Đó có thể được coi là ví dụ điển hình, biểu trưng cho tinh thần hòa đồng, gắn kết trong dòng tộc nhà Trần; cũng là cội nguồn sức mạnh của hào khí Đông A, tạo nên những thành tựu rực rỡ về võ công, văn trị một thời. Xin được dẫn lời của Bắc kỳ Kinh lược đại sứ Hoàng Cao Khải, khắc trong bia văn đền Vạn Kiếp để ca ngợi khí tiết và sự nghiệp cái thế của Đức thánh Trần “Với nhà Trần, vương Trần Hưng Đạo – TG là người tin cậy giữ thành, giữ nước, gửi trọng trách nơi triều đình, được mọi người quy phụ, chư tướng dốc lòng. Giả sử nghe lời di huấn của cha, vua nhỏ dễ lộng quyền, hoặc thay rèm đổi ngôi, hoặc đổi ấn xưng vương… Ngài thì đang khi nguy cấp lại an nhàn chấn chỉnh, ngôi vị cực tôn lại xử sự khiêm nhường, cầm dao kể tội con hư, bỏ đầu nhọn theo hầu xa giá. Môn hạ không gây bè đảng, xã tắc phúc bởi điều hòa. Vì thế mà vén trời vạch đất, là vĩ nhân của muôn đời. Xuất quỷ nhập thần, là hạo nhiên chính khí giữa khoảng trời đất”12. ________________ 1. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006, 2. Ngô Thì Sỹ, Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, 34, 106, 37, 80, 54, 72. 6. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, 11. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, 12. Hưng Đạo vương từ bi ký, in trong Di sản Hán Nôm Côn Sơn – Kiếp Bạc – Phượng Sơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, Nguồn Tạp chí VHNT số 339, tháng 9-2012 Tác giả Phạm Đức Anh
Thân thế Biến động gia đình Sự nghiệp Ba lần chống quân Nguyên Mông Lần thứ nhất 1258 Lần thứ hai 1285 Lần thứ ba cuối năm 1287 Trận Bạch Đằng 1288 Lui về Vạn Kiếp Qua đời Nhân cách, phẩm chất Gạt bỏ hiềm khích riêng Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôi Tác phẩm Ghi nhận công lao Gia quyến Đền thờ Câu nói nổi tiếng Xem thêm Sách tham khảo Chú thích Trần Hưng Đạo 陳興道 Hưng Đạo Đại vương Tượng Trần Hưng Đạo của điêu khắc gia Phạm Thông dựng vào giữa thập niên 1960 tại bến Bạch Đằng, Thành phố Hồ Chí Minh Tôn thất Hoàng gia Đại Việt Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân Thông tin chung Vợ Nguyên Từ quốc mẫu Tên thật Trần Quốc Tuấn 陳國峻 Thụy hiệu Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương 仁武興道大王 Triều đại Nhà Trần Thân phụ Khâm Minh đại vương Trần Liễu Thân mẫu Thiện Đạo quốc mẫu ? Sinh còn nghi vấn huyện Tức Mặc, Nam Định. Mất 20 tháng 8, 1300 Vạn Kiếp, Đại Việt Chí Linh, Việt Nam An táng Vườn An Lạc Tôn giáo Phật giáo Trần Hưng Đạo chữ Hán 陳興道; ? - 20 tháng 8, 1300, còn được gọi là Hưng Đạo đại vương 興道大王 hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương 仁武興道大王 là một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một nhà chính trị, nhà văn cũng như là Tư lệnh tối cao chỉ huy quân đội toàn quốc của Đại Việt thời nhà nổi tiếng trong lịch sử nước Việt với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt ba lần đẩy lùi quân Nguyên - Mông trong thế kỷ 13 1258-1288. Chiến thắng của ông trước đội quân Nguyên - Mông dưới thời Hốt Tất Liệt được đánh giá là một trong những chiến công vĩ đại của lịch sử quân sự thế giới. Được coi là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tưởng quân sự của ông đã được thể hiện rõ trong các luận thuyết, tác phẩm của mình. Thân thếTrần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn 陳國峻, con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có giả thiết đó là Thiện Đạo quốc mẫu 善道國母, huý là Nguyệt, một người trong tôn thất họ Vì Thuận Thiên công chúa là con của vua Lý Huệ Tông, nên theo luật lệ của triều đình xưa, dù hoàng nữ có là thiếp hoặc vợ thứ thì cũng được đưa lên hàng chính thất vợ cả. Sau khi Trần Liễu mất 1251, bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231. Nhưng điều đó cũng cho thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu thành lập năm 1225.Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa 瑞婆公主2 . Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay3 .Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ 4 . Biến động gia đìnhNăm 1237, gia đình ông đã xảy ra biến động. Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa chị của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công uất, Trần Liễu họp quân chống lại nhưng thế cô không làm gì được, phải xin đầu hàng. Vì Thái Tông cũng thương anh nên xin với Trần Thủ Độ tha tội cho Trần Liễu, nhưng quân lính đều bị giết5 . Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm người tài nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc trưởng thành, Trần Quốc Tuấn 19 tuổi đem lòng yêu công chúa Thiên Thành, không biết rõ gốc tích của bà, nhưng các nhà nghiên cứu phần lớn đều đồng tình với quan điểm bà là con gái trưởng của Trần Thái Tông tức là em họ của ông. Đầu năm 1251, Trần Thái Tông muốn gả công chúa cho Trung Thành vương, nên đã cho công chúa đến ở trong dinh Nhân Đạo vương cha của Trung Thành vương. Ngày rằm tháng giêng, Trần Thái Tông mở hội lớn, ý muốn cho công chúa làm lễ kết tóc với Trung Thành vương. Trần Quốc Tuấn muốn lấy công chúa, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng6 .Mẹ nuôi Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà công chúa biết chuyện, sợ ông bị hại trong phủ, liền chạy đến cung điện cáo cấp, xin Trần Thái Tông cứu Trần Quốc Tuấn. Vua hỏi việc gì, Thụy Bà trả lời"Quốc Tuấn ngông cuồng, đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo bắt giữ rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu". Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng đến chỗ Trần Thái Tông xin lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương6 .Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Sự nghiệp Ba lần chống quân Nguyên Mông Lần thứ nhất 1258Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín âm lịch năm Đinh Tỵ 1257, ông giao trách nhiệm phòng thủ biên giới trước thời điểm quân Mông Cổ xâm lược vào tháng 12 năm 1257. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép "Tháng 9 1257, Trần Thái Tông xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới phía Bắc theo sự tiết chế của Quốc Tuấn" 7 .Viết về cuộc chiến này, các bộ sử của hai bên như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nguyên sử, An Nam chí lược đều không đề cập chi tiết gì về vai trò của Hưng Đạo vương trong các trận đánh lớn của cuộc chiến. Các ngày 12-13 tháng 12 âm lịch năm 1257 tức 17-18 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ đánh bại quân Đại Việt do vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy ở Bình Lệ Nguyên và Phù Lỗ. Thái Tông rời bỏ kinh đô, lui về giữ sông Thiên Mạc. Quân Mông Cổ vào Thăng Long nhưng thiếu lương thực trầm trọng, phải chia nhau đi cướp lương thực và bị chặn đánh quyết liệt. Ngày 24 tháng 12 âm lịch năm 1257 tức 28 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông cùng thái tử 18 tuổi Trần Hoảng ngự lâu thuyền tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ, giải phóng Thăng Long. Chiến tranh kết thúc, Quốc Tuấn vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép "Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả". Sau chiến thắng quân Mông Cổ, vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Thánh Tông phong em là Trần Quang Khải là Thái úy, tước Đại vương. Lần thứ hai 1285Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt. Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành...8 .Đầu năm 1277, Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La nay thuộc Quảng Bình. Trần Quang Khải đi theo, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời"Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".Khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau9 .Sau đó, Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước. Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng tốt10 .Đầu năm 1281, vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt sai Sài Thung đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép "Sài Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu... Vua Trần Nhân Tông sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông..."11 Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việt với nhà Nguyên đến gần. Tháng Mười âm lịch năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân. Ông chọn các quân hiệu tài giỏi, cho chia nhau chỉ huy các đơn vị quân đội. Tháng Tám âm lịch năm sau 1284, ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay, đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ Bình Than và các nơi hiểm yếu Tháng 7 âm lịch năm 1284, nhà Nguyên sai Trấn Năm vương Thoát Hoan, A Lý Hải Nha tập trung 50 vạn quân ở hành tỉnh Hồ Quảng, dự đinh sang năm xâm lược Đại Việt. Tháng 11 âm lịch năm 1284, Trần Nhân Tông sai Trần Phủ sang hành tỉnh Hồ Quảng Đại Nguyên xin hoãn binh. Khi trở về, Trần Phủ báo tin Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan, A Lý Hải Nha lấy danh nghĩa mượn đường đánh Chiêm Thành, mang đại quân tiến vào đất Việt. Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Hưng Đạo vương đốc các quân đánh chặn ở biên giới nhưng thất bại, quân Đại Việt bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Đại Việt đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng. Sử chép rằng9 "Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượng và Yết Kiêu, đối xử rất hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân, Dã Tượng thì đi theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả. [Hưng Đạo] Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói"Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền".Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó. Vương mừng lắm, nói"Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi".Nói xong cho chèo thuyền đi, Kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc Giang."Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Đại Việt rút lui. Toàn bộ quân Đại Việt rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng . Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" vườn không nhà trống, Trần Hưng Đạo ra lệnh rút xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường vùng Nam Định đuổi theo vua Trần. Thượng hoàng Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng"13 .Sau trận quân Đại Việt phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ do sự phản bội của Trần Kiện, đại quân Việt chỉ lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông rút về vùng bờ biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay, là nơi mà quân Nguyên chưa vươn tới. Trong hành trình rút lui, quân Đại Việt bị quân Nguyên đuổi gấp. Trước thế quân Nguyên Mông bức bách, ông đưa hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay, sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn địch. Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, lại còn mối hiềm cũ của Trần Liễu, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, bởi vậy hai vua Trần và mọi người khỏi nghi ngại14 .Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên Ninh Bình, ngày 7 tháng 4 năm 1285, Trần Hưng Đạo lại đưa 2 vua Trần cùng đại quân vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp của đối Hàng loạt tông thất nhà Trần ra hàng quân Nguyên như hoàng tử Trần Ích Tắc, các hoàng thân Trần Lộng, Trần 5 dương lịch năm ấy 1285, ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, các cánh quân Đại Việt do Trần Hưng Đạo cùng Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật chỉ huy thắng lợi ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,... quân dân Đại Việt đã tiến vào Thăng Long, Thoát Hoan bỏ chạy. Trần Hưng Đạo và anh là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên đại bại rút chạy về phía . Quân Đại Việt do con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến Trần Quốc Nghiễn chỉ huy truy kích đến tận biên giới, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống đồng để chạy trốn17 . Trong cuộc chiến này, quân Đại Việt giết được tướng Nguyên là Toa Đô và Lý Hằng. Lần thứ ba cuối năm 1287Tháng 3 âm lịch năm 1286, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt sai Thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích Auruyvci, Bình chương sự Ô Mã Nhi Omar huy động 50 vạn quân, rồi sai hành tỉnh Hồ Quảng đóng 300 thuyền chiến, định đến tháng 8 hội quân ở Khâm Châu, Liêm Châu. Hốt Tất Liệt còn sai quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây chuẩn bị đánh Đại Việt, mượn danh nghĩa đưa phản thần nhà Trần là Trần Ích Tắc về làm An Nam Quốc vương. Tháng 6 âm lịch, vua Trần Nhân Tông xuống chiếu cho vương hầu, tôn thất chiêu mộ binh sĩ. Nhà vua hỏi Hưng Đạo vương18 "Thế giặc năm nay thế nào?".18 Trần Quốc Tuấn trả lời18 “ Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn. ” Vua Trần Nhân Tông cử Hưng Đạo vương thống lĩnh vương hầu luyện tập binh sĩ, sửa sang khí giới, đóng thuyền chiến. Tháng 2 âm lịch năm 1287, nhà Nguyên điều động quân Mông Cổ, quân Hán Nam người Hán ở miền Nam Trung Quốc, quân 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, quân Vân Nam, quân người Lê ở 4 châu ngoài biển, chia làm nhiều cánh tràn vào Đại Việt. Vạn hộ Trương Văn Hổ dẫn quân thủy chở 70 vạn thạch lương theo sau. Hốt Tất Liệt còn lập Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh do Bình chương sự Áo Lỗ Xích, các Tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đứng đầu; cơ quan này phải chịu sự sai khiến của Thoát Hoan. Các quan Đại Việt xin bắt tráng đinh sung quân để quân đội đông hơn, nhưng Hưng Đạo Vương không đồng ý18 “ Quân quý ở tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân mà như Bồ Kiên thì cũng làm gì được? ” Ngày 14 tháng 11 âm lịch 1287, Trịnh Xiển báo tin cánh quân Vân Nam của Nguyên đánh ải Phú Lương. Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương "Năm nay đánh giặc thế nào?". Ông vẫn quả quyết "Năm nay đánh giặc nhàn".18 Lần này biết nhà Trần đã phòng bị ở Thanh - Nghệ, Thoát Hoan tiến thẳng vào từ phía bắc và đông bắc. Sau những cuộc đụng độ bất lợi ở biên giới, quân Đại Việt rút lui. Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Đại Việt nấp trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Đại Việt thường ẩn nấp khó phát hiện ra19 . Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư chặn đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do bị thiếu lương và bệnh dịch, Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư âm lịch năm Mậu Tý 1288, bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần"20 . Trận Bạch Đằng 1288Trận đánh nổi bật nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba, mang tính chất khẳng định cũng là lần cuối cùng quân Nguyên - Mông xâm lược Đại quân Mông Cổ vốn không biết về chu trình thuỷ triều của sông. Trước ngày diễn ra trận đánh quyết định này, ông đã đoán tuyến đường tháo chạy của chúng và nhanh chóng cho quân cắm cọc gỗ vót nhọn ở đáy sông, tạo thành thế trận cọc ngầm độc đáo giống như hồi thời Ngô Quyền, Lê Hoàn. Khi Ô Mã Nhi cho quân vào sông, quân ta cử các tàu nhỏ vào nhử chúng khi nước còn lên cao che hết cọc gỗ. Khi nước xuống, thuyền giặc liền bị mắc kẹt, "không tiến cũng không lui được", ngay lập tức quân Trần Hưng Đạo xông ra tấn công. Cuối cùng, 400 thuyền Mông Cổ bị đốt cháy hết. Toàn bộ hạm đội giặc bị phá tan nát, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Lui về Vạn KiếpDo đã có những công lao to lớn trên con đường vệ quốc, gìn giữ độc lập, Vua đã trao cho ông vị trí tối cao toàn quyền chỉ huy quân đội toàn quốc, đồng thời cho phép ông phong tước, hiệu cho bất kỳ ai mà ông muốn. Nhưng trong suốt cuộc đời, ông không hề sử dụng đặc quyền Tư âm lịch năm Kỷ Sửu 1289, luận công ba lần đánh đuổi quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được phong ấp nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví ông với Thượng phụ tức Khương Tử Nha21 Qua đờiTháng Sáu âm lịch năm Canh Tý 1300, Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Ông trả lời "Ngày xưa Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã vườn không nhà trống, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy"22 .Chữa mãi không khỏi bệnh, ông mất vì tuổi già vào ngày 20 tháng Tám âm lịch năm sắp mất, Trần Hưng Đạo vương dặn các con rằng "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục"23 Nghe tin Trần Hưng Đạo vương mất, triều đình nhà Trần phong tặng ông là "Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo Chí Linh, Hải Dương. Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Nhân cách, phẩm chất Gạt bỏ hiềm khích riêngTranh vẽ Trần Hưng Đạo, thời NguyễnNăm Đinh Dậu 1237, Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu cha Trần Hưng Đạo phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa chị của Lý Chiêu Hoàng cho em ruột là vuaTrần Thái Tông Trần Cảnh dù bà này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng đang là Hoàng hậu xuống làm Công chúa. Phẫn uất, Trần Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn tức Trần Hưng Đạo. Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăn trối rằng "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăn trối để dò ý hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai cha ông có hiềm khích lớn với nhà Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo luôn đặt việc nước lên trên, một lòng trung thành, hết lòng phò tá các vua Trần đánh ngoại xâm cứu nước. Đối với lời dặn của Trần Liễu trước khi mất, Trần Quốc Tuấn từng vờ hỏi các con. Ông hỏi Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ vương thưa "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!". Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ". Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng" 24 .Hưng Vũ vương Nghiễn được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì "sợ phật ý Quốc Tuấn". Tuy nhiên khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy "giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư" khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người được ông chọn để viết bài Tựa cho sách25 . Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôiCổng vào đền thờ Trần Hưng Đạo ở quận 1, Thành phố Hồ Chí MinhĐền thờ Trần Hưng Đạo ở địa chỉ trênTrần Hưng Đạo khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự 26 Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi...27 Tác phẩm Dụ chư tỳ tướng hịch văn Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng, quen gọi là Hịch tướng sĩ. Binh gia diệu lý yếu lược Tóm lược chỗ cốt yếu trong nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược Vạn Kiếp tông bí truyền thư Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư quyển VI ghi lại. Ghi nhận công laoTượng đài Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng TP. Hồ Chí MinhDưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã vượt qua vô vàn khó khăn và nguy hiểm, chỉ với số đội quân ít thiện chiến, yếu hơn so quân giặc lại ba lần đánh tan hàng vạn quân Mông Nguyên xâm lược hùng mạnh, giành thắng lợi lẫy lừng, "tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên"28 . Chiến lược của ông đã góp phần rất lớn đến thắng lợi này nên chiến công vĩ đại này thường gắn liền với tên tuổi của ông. Công lao to lớn này đã đưa ông lên hàng "thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần" 29 , một bậc thầy về chiến lược thực sự. Chiến thắng của ông và quân đội Nhà Trần đã góp phần đánh dấu chấm hết thời kỳ đỉnh cao của quân Nguyên - Mông trong lịch một người có tài dụng người, dụng binh thao lược, ông tiến cử người tài giỏi giúp nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông đã có công đánh dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu,Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn người trung nghĩa nên đã giữ được những nhân tài chung quanh ông. Ví dụ như khi vua Trần Thánh Tông vờ bảo với Trần Quốc Tuấn rằng “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn trả lời “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng giặc”. Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông và tôn ông là vị anh hùng dân tộc có công trạng lớn vào hàng bậc nhất đối với tổ quốc và là tấm gương uy vũ sáng ngời cho nhiều thế hệ mai một Tiết chế đầy tài năng, khi "dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái"30 . Ông nổi tiếng với chiến lược "tấn công và rút lui". Ngoài ra, ông còn đặc biệt có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch "thanh dã" vườn không nhà trống và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa "hương binh" và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối với cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng...đã làm cho tên tuổi ông bất tử 29 .Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên trước khi mất, ông vẫn còn dặn vua Trần Anh Tông rằng "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà29 . Gia quyến Cha Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Mẹ Có lẽ là Thiện Đạo quốc mẫu 善道國母, húy Nguyệt. Sau khi Khâm Minh đại vương mất, bà xuất gia làm ni. Vợ Nguyên Từ quốc mẫu 1235 - 1288, tức Thiên Thành công chúa, con gái/ em gái của Trần Thái Tông. Con cái Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn 陳國巘, trở thành phò mã của Trần Thánh Tông, cưới Thiên Thụy công chúa. Sau khi đánh đuổi quân Nguyên Mông, tháng 4 năm 1289, được phong làm Khai Quốc công. Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện 陳國峴 là người có công tổ chức khẩn hoang nhiều vùng đất hoang vu của khu vực tỉnh Hải Dương ngày nay31 . Khi xét công đánh đuổi quân Nguyên, Hưng Trí vương không được thăng trật, vì "đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng" 32 . Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng 陳國顙, cha của Thuận Thánh hoàng hậu, vợ Trần Anh Tông. Khi xét công chống giặc, được phong làm Tiết độ sứ. Hưng Hiển Vương Trần Quốc Uy. Bảo Thánh hoàng hậu Trần Trinh 陳貞, hoàng hậu của Trần Nhân Tông, mẹ đẻ của Trần Anh Tông6 . Anh Nguyên quận chúa 英元郡主, con gái nuôi, vợ của danh tướng Phạm Ngũ Lão33 . Có thuyết cho rằng quận chúa là con gái ruột của Hưng Đạo Vương nhưng ông đã đổi thành con gái nuôi để tránh quy định khắt khe của nhà Trần chỉ người trong dòng tộc mới được kết hôn và gả cho Phạm Ngũ Lão Đền thờ Đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương. Đệ Nhất Linh từ. Đền Trần, Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình. Đền Trần, xã Khánh Lợi, Yên Khánh, Ninh Bình. Đền A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đệ Nhị Linh từ. Đền Bảo Lộc, tỉnh Nam Định. Đền Cao An Phụ, xã An Phụ, huyện Kinh Môn, Hải Dương. Đền Trần Hưng Đạo, xã Khánh Cư, Yên Khánh, Ninh Bình. Đền Trần, Thanh Hóa ở làng Thổ Khối, xã Hà Dương, huyện Hà Trung, Thanh Hóa thờ Trần Hưng Đạo. Đền Trần Hưng Đạo, Làng Thành An, xã Nghĩa Phong, Nghĩa Hưng, Nam Định. Đình An Quý, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng thờ Trần Hưng Đạo Đền Tân Phẩm, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đền Linh Quang,Phường Phú Thừa Thiên Huế Đền Trần Thương, tỉnh Hà Nam. Đền Thái Vi ở Hành cung Vũ Lâm, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở 92, Dương Khuê, Phường Hiệp Tân, Quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh Đình Tân Phong, thôn Sào Thượng, xã Lạng Phong, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Điện thờ Đức Thánh Trần, thôn Quang Trung, xã Diên Hông, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Đền thờ Đức Thánh Trần Tọa lạc tại thôn Hoàng Sơn, xã Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình. Đền thờ Đức Thánh Trần, ấp Lai Khê, xã Lai Hưng, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Đền thờ Đức Thánh Trần, đường Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đền thờ Hồi Nguyên Đường, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở Thôn Cao Trung xã Đức Giang huyện Hoài Đức TP Hà Nội. Di tích chùa Đẩu Long, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình. Tượng đài Trần Hưng Đạo nằm trên một ngọn đồi của bán đảo Phương Mai ở Làng chài Hải Minh thuộc phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ Trần Hưng Đạo tọa lạc tại số 124 đường Nguyễn Trãi - Trang tỉnh Khánh Hòa được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu tấm linh hướng về cội nguồn của những người dân miền Bắc vào Khánh Hòa sinh sống vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Đây là ngôi đền duy nhất ở miền Trung thờ Đức Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Năm 1995, Đền thờ Trần Hưng Đạo Nha Trang được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá. Tượng đài Trần Hưng Đạo nằm Công viên Bạch Đằng Trang tỉnh Khánh Hòa Đền thờ Đức Thánh Trần, Số 68 Hạ Long, P. 2, TP. Vũng Tàu Tượng đài Trần Hưng Đạo nằm trên một ngọn đồi của bán đảo Phương Mai ở Làng chài Hải Minh thuộc phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn. Câu nói nổi tiếng “ Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng ” — Trả lời Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trong cuộc kháng chiến lần 2 “ Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xẻ thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng. ” — Hịch tướng sĩ “ Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy. ” — Trả lời Trần Anh Tông về quốc sách giữ nước trước khi mất Xem thêm Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1 Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 Sách tham khảo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư bản dịch, tập 2. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1985. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968. Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Trần Quốc Tuấn" trong Từ điển văn học bộ mới. Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Nguyển Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 2006. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển. Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966. Trần Xuân Sinh 2006, Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng Chú thích ^ Trần triều thế phả hành trạng, 543. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 21 và 77. ^ Long Hưng, vùng đất phát nghiệp đế ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 77. ^ Lược kể theo Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 33-34. ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5 ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 25. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 255 ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5 ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 70. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 44. ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm 1972, trang 212-216. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 79. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 52. ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm 1972, trang 239-243. ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm 1972, trang 254. ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm 1972, trang 256-257. ^ a ă â b c Nhiều tác giả 1993, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội, các trang 195-196. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 221 ^ Việt Nam sử lược, tr. 154. ^ Theo Nguyễn Huệ Chi tr. 1799 và Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 78. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 76-77. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 78. Lời di chúc này liệu có gắn với "Viên Lăng" tức là vườn mộ của ông mà dân gian thường gọi ở một quả đồi nhỏ cách Kiếp Bạc 100 m về phía Nam ?. Cho đến nay, các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được mộ phần của Trần Hưng Đạo ở đâu. Theo [1]. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 tr. 77-78. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 46, 58 và 82. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 78-79. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 78. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 79. ^ a ă â Nguyễn Huệ Chi, tr. 1799. ^ Việt Nam sử lược, tr. 147. ^ Danh tướng Việt Nam tập 1, tr. 98. ^ Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, tr. 62. ^ Tên và tước phong các người con của Hưng Đạo Vương chép theo Đại Việt sử ký toàn thư tr. 49. Danh tướng Việt Nam tập 1, tr. 98-99 chép khác. Nguồn Wikipedia
trần thủ độ và trần hưng đạo